Doanh nghiệp bị cấm thực hiện các hoạt động nào khi thực hiện giải thể?

Trả lời:

Khi doanh nghiệp tiến hành giải thể, có một số hoạt động bị cấm theo quy định của pháp luật để đảm bảo quá trình giải thể diễn ra đúng đắn và bảo vệ quyền lợi của các bên liên quan. Dưới đây là các hoạt động mà doanh nghiệp bị cấm thực hiện trong quá trình giải thể:

Sau khi có quyết định giải thể, để tránh việc doanh nghiệp trốn tránh nghĩa, bảo đảm quyền lợi cho chủ nợ và những người có liên quan, pháp luật đã quy định cấm doanh nghiệp, người quản lý doanh nghiệp thực hiện các hành vi tại Khoản 1 Điều 211 Luật Doanh nghiệp 2020, cụ thể như sau:

Thứ nhất, Cất giấu, tẩu tán tài sản. Hành vi này có thể được hiểu là việc che giấu hoặc xác lập các giao dịch giả tạo, các giao dịch thường được lập nhằm mục đích tẩu tán tài sản là giao dịch về mua bán, tặng cho, chuyển nhượng. Mục đích của hành vi là nhằm chiếm đoạt tài sản do mình quản lý. 

Thứ hai, từ bỏ hoặc giảm bớt quyền đòi nợ. Bên có quyền đòi nợ có thể yêu cầu bên có nghĩa vụ trả nợ hoặc có quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc bên có nghĩa vụ trả nợ phải thanh toán nợ cho mình. Căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 450 Bộ Luật dân sự 2015 thì quyền đòi nợ được hiểu là một loại quyền tài sản mà quyền tài sản lại là một trong bốn loại tài sản (Khoản 1 Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015). Nếu doanh nghiệp xóa hoặc giảm nợ để chấm dứt hợp đồng với đối tác nhằm hoàn tất việc giải thể thì sẽ vi phạm pháp luật bởi hành vi này khiến tài sản doanh nghiệp bị suy giảm, đồng thời làm mất đi sự công bằng giữa các chủ nợ.

Thứ ba, chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành các khoản nợ có bảo đảm bằng tài sản của doanh nghiệp. Khoản nợ không có bảo đảm có thể được hiểu là khoản nợ không được đảm bảo bằng tài sản hiện vật của doanh nghiệp hoặc của người thứ ba. Khoản nợ có bảo đảm là khoản nợ được bảo đảm thanh toán bằng tài sản của doanh nghiệp, người thứ ba. Khoản nợ có bảo đảm đã được bảo đảm bằng tài sản, nên khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ thì chủ nợ có thể tịch thu tài sản đó. Việc chuyển những khoản nợ không có đảm bảo thành những khoản nợ có đảm bảo sẽ dẫn đến thứ tự ưu tiên trả nợ bị đảo lộn. Những chủ nợ mà trước đây không có bảo đảm sẽ có thứ tự ưu tiên trả nợ sau những chủ nợ đã có bảo đảm nay sẽ ngang hàng với những chủ nợ có bảo đảm, và như vậy sẽ dẫn đến sự mất công bằng đối với những chủ nợ không có bảo đảm khi mà giá trị của khối tài sản phá sản để trả nợ cho những chủ nợ không có bảo đảm sẽ bị giảm sút.

Thứ tư, ký kết hợp đồng mới, trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh nghiệp. Khi tiến hành giải thể doanh nghiệp tức là chủ doanh nghiệp đã quyết định chấm dứt những hoạt động kinh doanh, những hoạt động ký kết hợp đồng mới là không được phép. Đồng thời quy định này hạn chế việc ký kết hợp đồng mới là phát sinh nhằm giao dịch, chi phí cho công ty để doanh nghiệp tẩu tán tài sản bằng phương thức này, trừ trường hợp để thực hiện giải thể doanh nghiệp.

Thứ năm, Cầm cố, thế chấp, tặng cho, cho thuê tài sản. Cầm cố tài sản là việc một bên giao tài sản thuộc quyền sở hữu của mình cho bên kia để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ. Thế chấp tài sản là việc một bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ và không giao tài sản cho bên kia. Tặng cho tài sản là việc một bên giao tài sản của mình và chuyển quyền sở hữu cho bên được tặng cho mà không yêu cầu đền bù, bên được tặng cho đồng ý nhận. Cho thuê tài sản là việc bên cho thuê giao tài sản cho bên thuê để sử dụng trong một thời hạn, bên thuế phải trả tiền thuê. Khi giải thể, tài sản của doanh nghiệp phải được dùng để đảm bảo thanh toán các khoản nợ, vì thể doanh nghiệp không được thực hiện các hành vi trên.

Thứ sáu, Chấm dứt thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực. Theo đó, Doanh nghiệp vẫn có nghĩa vụ thực hiện hợp đồng đã có hiệu lực trước khi giải thể. Quy định này nhằm bảo đảm quyền lợi cho các bên liên quan đã ký kết hợp đồng với doanh nghiệp từ trước đó.

Thứ bảy, Huy động vốn dưới mọi hình thức. Khi đang tiến hành giải thể tức là doanh nghiệp đã quyết định chấm dứt không còn hoạt động kinh doanh, việc doanh nghiệp huy động vốn sẽ có thể gây thiệt hại cho các thành viên, cổ đông mới. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, cá nhân có hành vi vi phạm các trường hợp trên có thể bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường.

Việc cấm doanh nghiệp thực hiện các hoạt động trên trong quá trình giải thể nhằm đảm bảo tính minh bạch, công bằng và tuân thủ pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, người lao động và các bên liên quan khác. Điều này giúp quá trình giải thể diễn ra thuận lợi và đúng đắn.

Các trường hợp và điều kiện giải thể doanh nghiệp

Bài viết liên quan
0988292673
icons8-exercise-96 challenges-icon chat-active-icon