Quy định về quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp bao gồm Quyền thành lập, góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp và quản lý doanh nghiệp là quyền được luật hóa từ quyền tự do kinh doanh của con người được ghi nhận tại Hiến pháp năm 2013.
Khoản 1 Điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định: “Tổ chức, cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam theo quy định của Luật này, trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều này”.
Theo đó, mọi tổ chức, cá nhân có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp trừ các chủ thể được quy định tại khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020. Cụ thể, khoản 2 Điều 17 Luật Doanh nghiệp 2020 quy định về các chủ thể không có quyền thành lập doanh nghiệp bao gồm:
Thứ nhất, cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình. Thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình quy định là việc sử dụng thu nhập dưới mọi hình thức có được từ hoạt động kinh doanh, từ góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào một trong các mục đích sau đây:
a) Chia dưới mọi hình thức cho một số hoặc tất cả những người quy định tại điểm b và điểm c;
b) Bổ sung vào ngân sách hoạt động của cơ quan, đơn vị trái với quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước;
c) Lập quỹ hoặc bổ sung vào quỹ phục vụ lợi ích riêng của cơ quan, đơn vị.
Thứ hai, cán bộ, công chức, viên chức theo quy định của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức;
Thứ ba, sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân, viên chức quốc phòng trong các cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp, công nhân công an trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt Nam, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp hoặc quản lý tại doanh nghiệp nhà nước;
Thứ tư, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong doanh nghiệp nhà nước trong doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, trừ người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác.
Thứ năm, người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; người bị mất năng lực hành vi dân sự; người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi; tổ chức không có tư cách pháp nhân;
Thứ sáu, người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị tạm giam, đang chấp hành hình phạt tù, đang chấp hành biện pháp xử lý hành chính tại cơ sở cai nghiện bắt buộc, cơ sở giáo dục bắt buộc hoặc đang bị Tòa án cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định; các trường hợp khác theo quy định của Luật Phá sản, Luật Phòng, chống tham nhũng.
Thứ bảy, tổ chức là pháp nhân thương mại bị cấm kinh doanh, cấm hoạt động trong một số lĩnh vực nhất định theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Trong môi trường kinh doanh đầy biến động hiện nay, việc hiểu và tuân thủ các quy định về quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp là cực kỳ quan trọng. Bằng cách nắm vững các quy định pháp luật và áp dụng chúng một cách chính xác, doanh nghiệp có thể tạo ra một cơ sở vững chắc để phát triển bền vững và thành công. Hơn nữa, việc xây dựng một nền tảng pháp lý chắc chắn không chỉ giúp bảo vệ quyền lợi của doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ với các bên liên quan như cổ đông, nhân viên và cơ quan quản lý. Chính vì vậy, việc thực hiện quyền và trách nhiệm một cách đúng đắn không chỉ là nghĩa vụ mà còn là chìa khóa cho sự thành công của doanh nghiệp trong thời đại ngày nay.
Xem thêm: Các chủ thể nào không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp